Quân đội nhân dân Việt Nam - 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành
Đây là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại và rất đặc biệt đối với đất
nước hình chữ S của chúng ta. Khác với hầu hết các quốc gia trên thế giới, kỷ
niệm Ngày thành lập của Quân đội ta không chỉ bó hẹp trong Quân đội, mà còn là
ngày kỷ niệm đầy ý nghĩa, thể hiện niềm kiêu hãnh,tự hào to lớn của toàn Đảng,
toàn quân, của cả hệ thống chính trị, của mọi người dân từ thành thị tới nông
thôn, từ đồng bằng tới miền núi, từ biên cương đất liền tới hải đảo và cả kiều bào
ta ở nước ngoài. Hơn nữa, dịp kỷ niệm năm nay diễn ra trong một bối cảnh cũng rất
đặc biệt, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã khẳng định, đất
nước ta đang ở thời điểm chuyển giao bước sang một kỷ nguyên mới - “Kỷ nguyên
vươn mình của dân tộc” để xây dựng nước
Việt Nam tươi đẹp của chúng ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “sánh vai cùng các
cường quốc năm châu” như tâm nguyện mà Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn và hiện
thực khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Từ khi thành lập đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, trưởng thành, cùng toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lập nên những chiến công hiển hách, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ảnh:chinhphu.vn.
I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - 80 NĂM
XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU, CHIẾN THẮNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
1. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, đánh thắng hai trận đầu,
cùng nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền(1944 - 1945)
Ngay từ khi ra
đời (3/2/1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định con
đường đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc là dùng bạo lực cách mạng
để giành chính quyền và yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông” để
làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh cách mạng. Luận cương chính trị của
Đảng (tháng 10/1930) xác định nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền,
trong đó chỉ rõ phải: “Lập quân đội công nông”.
Trong phong trào cách mạng 1930 - 1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ -
Tĩnh, từ lực lượng khởi nghĩa của công nông,
Đội tự vệ công nông (Tự vệ Đỏ) đã ra đời. Đó
là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Tiếp theo đó,
hàng loạt tổ chức vũ trang lần lượt được thành lập như: Đội du kích Bắc Sơn
(1940), các đội du kích ở Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941)…
Ngày 22/12/1944,
tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên
Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh
Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam được thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong Chỉ
thị, Người ghi rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là
chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”; “Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những
đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ
vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp
đất nước Việt Nam”.
Đội gồm 34 người, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng,
đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên, có chi bộ Đảng lãnh đạo. Đồng chí Võ
Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh
đạo, chỉ huy, tuyên bố thành lập Đội.Ngày 22/12/1944 được lấy làm Ngày thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngay sau ngày thành lập, 17 giờ ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt và 07
giờ sáng hôm sau (26/12) lại đột nhập đồn Nà Ngần (đều đóng tại châu Nguyên
Bình, tỉnh Cao Bằng), tiêu diệt hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính
địch, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần
mở đầu cho truyền thống “quyết chiến, quyết thắng" của Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Hội nghị quân sự
cách mạng Bắc Kỳ của Đảng (4/1945) đã quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang cách
mạng trên cả nước thành Việt Nam giải phóng quân. Trong Cách mạng tháng Tám năm
1945, Việt Nam giải phóng quân đã cùng lực lượng vũ trang các địa phương và
nhân dân cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Việt
Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt
Nam (1946), từ năm 1950 được gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, cùng nhân dân ta nhất tề đứng lên, quyết
chiến đấu với quân xâm lược. Cuối năm 1946, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước chia thành 12 chiến khu. Lúc này, ở
Nam Bộ vẫn tổ chức các chi đội Vệ quốc đoàn, ở Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung
đoàn và một số tiểu đoàn thuộc các chiến khu; hệ thống tổ chức đảng trong Quân
đội được thành lập từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ.
Đêm 19/12/1946,
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, quân
và dân ta đã đánh hàng trăm trận,loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch,
phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.Mùa Xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc, nơi đây trở thành trung
tâm chỉ đạo kháng chiến của cả nước.
Thu Đông năm
1947, thực dân Pháp huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ
trợ, bất ngờ tiến công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến
và bộ đội chủ lực của ta. Sau hơn hai tháng mở chiến dịch phản công (7/10 -
20/12/1947), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.000 tên địch. Đây là chiến dịch
phản công quy mô lớn đầu tiên giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và
dân ta; đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn và làm phá sản chiến lược “đánh
nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, bảo
vệ cơ quan đầu não và căn cứ địa của cả nước.
Sau chiến dịch
Việt Bắc năm 1947, Quân đội ta đã có bước trưởng thành, song chưa có khả năng mở
những chiến dịch lớn. Để đánh bại âm mưu bình định của địch, ta chủ trương phát
động chiến tranh du kích rộng khắp và thực hiện “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập
trung”, vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích vừa học tập tác chiến tập trung vận động
chiến. Các tiểu đoàn tập trung được củng cố xây dựng và từng bước tiến lên đánh
những trận phục kích, tập kích lớn hơn. Từ đầu năm 1948 đến giữa năm 1950, bộ đội
ta liên tiếp mở trên 20 chiến dịch nhỏ trên các chiến trường. Mức độ tập trung
cho mỗi chiến dịch từ 3 đến 5 tiểu đoàn, sau nâng dần lên 2 đến 3 trung đoàn,
có chiến dịch sử dụng cả sơn pháo và trọng liên. Trong nhiều trận đánh, quân ta
đã tiêu diệt từng đại đội đến tiểu đoàn địch ở ngoài công sự và tiêu diệt cứ điểm
có trên dưới một đại đội địch đóng giữ.
Từ giữa năm
1949, Bộ Tổng Tư lệnh chủ trương rút các đại đội độc lập về xây dựng các trung
đoàn, đại đoàn chủ lực. Ngày 28/8/1949, Đại đoàn 308 ra đời; ngày 10/3/1950, Đại
đoàn 304 được thành lập. Công tác huấn luyện được đẩy mạnh. Qua các cuộc vận động
“luyện quân lập công”, “rèn cán chỉnh quân” trong các năm 1948, 1949 và đầu năm
1950, lực lượng vũ trang ta không ngừng phát triển và ngày càng lớn mạnh.
Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới. Sau gần
một tháng chiến đấu (16/9 - 14/10/1950), ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000
tên địch,giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), căn cứ địa Việt Bắc được
mở rộng và củng cố, khai thông liên lạc với cách mạng Trung Quốc. Chiến
thắng Biên giới góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh: Ta bước
sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, quân Pháp chuyển dần sang chiến
lược phòng ngự; đồng thời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về nghệ thuật chiến
dịch và sự trưởng thành lớn mạnh của Quân đội ta.
Sau chiến dịch
Biên giới, các đại đoàn chủ lực tiếp tục được thành lập: Đại đoàn 312
(12/1950), Đại đoàn 320 (1/1951), Đại đoàn công pháo 351 (3/1951), Đại đoàn 316
(5/1951). Trong vòng 6 tháng (12/1950 - 6/1951), ta đã liên tiếp mở ba chiến dịch
mang tên: Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung. Đây là những chiến dịch
quy mô lớn đầu tiên đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng
Bắc Bộ. Ta đã diệt hơn một vạn tên địch, trong đó gần một nửa là quân cơ động.
Tháng 11/1951, Bộ
Chính trị quyết định mở chiến dịch Hoà Bình;vừa tập trung chủ lực trên mặt trận
chính Hoà Bình, vừa đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu đồng
bằng Bắc Bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm. Chiến dịch
diễn ra từ ngày 10/12/1951 đến ngày 25/2/1952;quân và dân ta đã loại khỏi vòng
chiến đấu hơn 6.000 tên địch ở mặt trận Hòa Bình và hơn 15.000 tên địch ở mặt
trận địch hậu. Trong chiến dịch này, bộ đội ta có bước tiến bộ mới về trình độ
chiến thuật, kỹ thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày, về sự phối hợp
tác chiến giữa ba thứ quân.
Đầu tháng
9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Sau gần hai tháng chiến
đấu (14/10 - 10/12/1952), ta đã tiêu diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải phóng
một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng, nối thông vùng giải phóng
Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công,
làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch.
Ngày 5/12/1952,
tại Bình - Trị - Thiên, Đại đoàn 325 được thành lập, góp phần tăng thêm sức mạnh
chiến đấu của “các quả đấm chủ lực cách mạng”. Tính đến thời điểm này, đội quân
chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đoàn bộ binh (308, 304, 312,
320, 316, 325) và 1 đại đoàn công binh, pháo binh (351).
Trước những
thay đổi cục diện chiến tranh ở Đông Dương, trên cơ sở đánh giá đúng tương quan
so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Thực hiện chủ trương đó, Bộ Tổng Tư
lệnh ra lệnh cho các đơn vị chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ trên các
chiến trường. Ta đã hình thành năm đòn tiến công chiến lược tại Lai Châu, Trung
Lào, Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc chúng phải căng ra
đối phó ở khắp nơi.
Sau khi thực
dân Pháp đổ quân đánh chiếm Điện Biên Phủ, trước thời cơ thuận lợi, ngày 6/12/1953,
Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3
- 7/5/1954) liên tục chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ
62 máy bay; thu toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện
Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược,
buộc thực dân Pháp phải ký kết hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Đông Dương. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một điển hình xuất sắc, là đỉnh
cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp; đồng thời là
minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến
đấu và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954).
3. Quân đội nhân
dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ mở ra một giai đoạn phát
triển mới của cách mạng Việt Nam. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, tháng 3/1957, Hội nghị
Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) ra Nghị quyết về vấn đề xây dựng Quân đội, củng
cố quốc phòng, Nghị quyết chỉ rõ: “Phương châm xây dựng quân đội của chúng ta
là tích cực xây dựng một quân đội nhân
dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá”.
Đến năm 1960,
Quân đội ta đã có bước trưởng thành mới, từ lực lượng chủ yếu là bộ binh với tổ
chức chưa thật thống nhất, vũ khí, trang bị còn thiếu thốn đã trở thành Quân đội
chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các lực lượng: Lục quân, Hải quân, Phòng
không - Không quân. Đây là bước phát triển rất
quan trọng, tạo nền móng cho xây dựng Quân đội tiến tới chính quy, hiện đại, sẵn
sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.
Ở miền Bắc,
Quân đội đã tích cực tham gia công tác tiếp quản các thành phố, thị xã và các
vùng do quân Pháp chiếm đóng trước đây. Thực hiện tốt nhiệm vụ quân quản, phối
hợp với các lực lượng công an nhanh chóng thiết lập trật tự, trị an, bảo vệ
tính mạng, tài sản của nhân dân, đấu tranh chống địch bắt người, cướp của, phá
hoại tài sản công cộng.
Ở miền Nam,
trong những năm 1954 - 1960, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo,
gây ra những tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, Hội
nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (1/1959) nêu lên hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng
miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. Chấp hành nghị quyết của Đảng, Tổng Quân
ủy và Bộ Quốc phòng đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng Quân đội.
Việc chuẩn bị cho bộ đội ta vào miền Nam chiến đấu cũng được xúc tiến. Theo đó,
Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc đã được tập trung huấn luyện trước
khi lên đường vào Nam chiến đấu. Ngày 19/5/1959, Đoàn 559 được thành lập với
nhiệm vụ mở đường dọc dãy Trường Sơn bảo đảm cho lực lượng ta vào Nam chiến đấu
và vận chuyển lương thực, súng đạn từ miền Bắc vào miền Nam. Tiếp đó, Đoàn 759
cũng được thành lập với nhiệm vụ vận chuyển, tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam
theo đường biển.
Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 15 đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi. Để đẩy mạnh
cao trào cách mạng của quần chúng, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực
lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam;đây là bộ phận của Quân đội nhân dân Việt
Nam trực tiếphoạt động trên chiến trường miền Nam.
Từ năm 1961, đế
quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Được cố vấn Mỹ chỉ huy và
dựa vào hỏa lực Mỹ chi viện, ngụy quân Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân
đánh phá vùng giải phóng, gom dân lập “ấp chiến lược”. Quân và dân ta đã liên tục
chiến đấu, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Trong đó, tiêu biểu là chiến thắng
Ấp Bắc (1/1963) mở đầu cho sự thất bại của chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết
xa vận”của quân ngụy Sài Gòn;đồng thời mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc
lập công” sôi nổi khắp miền Nam.
Ngày 5/8/1964, sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, vu cáo Hải quân
nhân dân Việt Nam cố ý tiến công tàu khu trục Mỹ ở vùng biển quốc tế nhằm đánh
lừa dư luận, chính quyền Mỹ sử dụng không quân bất ngờ mở cuộc tiến công mang
tên “Mũi tên xuyên”, đánh phá vào hầu hết các căn cứ của hải quân ta trên suốt
dải ven biển miền Bắc. Nhờ chuẩn bị từ trước, các đơn vị hải quân, phòng không,
dân quân tự vệ đã kịp thời phát hiện, mưu trí, dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 8
máy bay, bắn bị thương 2 chiếc khác, bắt một phi công. Trận đầu đánh thắng
không quân Mỹ đã cổ vũ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân cả nước.
Trên cơ sở những
thắng lợi trong năm 1963 và đầu năm 1964, tháng 10/1964, Quân ủy Trung ương chỉ
thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động Đông Xuân 1964 - 1965,
tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng.
Sau các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của ta giành thắng lợi, chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ hoàn toàn bị phá sản.
Từ giữa năm
1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân chiến
đấu của Mỹ và đồng minh cùng khối lượng lớn phương tiện chiến tranh vào miền
Nam Việt Nam,
đồng thời củng cố và tăng cường quân ngụy. Toàn bộ mục tiêu chiến lược của đế
quốc Mỹ trong giai đoạn này là “tìm và diệt” chủ lực Quân Giải phóng và cơ quan
chỉ đạo cách mạng miền Nam, “bình định” miền Nam, uy hiếp tinh thần kháng chiến
của nhân dân Việt Nam, buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngồi vào
bàn đàm phán theo những điều kiện áp đặt của Mỹ.
Trước tình hình
đó, từ tháng 9 đến tháng 12/1965, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập tại chiến
trường miền Nam 5 sư đoàn bộ binh (9, 3, 2, 5, 1)và một đơn vị pháo binh tương
đương cấp sư đoàn mang phiên hiệu Đoàn pháo binh 69. Vừa xây dựng, vừa chiến đấu,
bộ đội ta trên các chiến trường miền Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy
nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - ngụy, mở ra phong trào “tìm Mỹ mà
đánh”, “tìm ngụy mà diệt”.
Mùa khô 1965 - 1966, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất
trên chiến trường miền Nam. Qua nửa năm chiến đấu gian khổ, quyết liệt, quân và
dân miền Nam đã đánh bại cuộc phản công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng
chục nghìn tên địch.Tháng 10/1966, đế quốc Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến
lược lần thứ hai nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của cách mạng miền
Nam. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao, lực lượng vũ trang tại
chỗ của ta đã trụ bám trận địa, tiến công rộng khắp bằng nhiều hình thức, tạo
điều kiện cho các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng mở các cuộc tiến công, gây cho
địch nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến tranh, buộc quân Mỹ phải
chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai mùa khô 1966 - 1967.
Sau những thắng
lợi quan trọng của cách mạng miền Nam, tháng 1/1968, Hội nghị Trung ương lần thứ
14 nhất trí thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị (12/1967), quyết định mở cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Chỉ trong thời gian ngắn, quân và
dân ta đã tiến công vào hàng loạt mục tiêu nằm sâu trong các đô thị trên toàn
miền Nam, gây cho địch thiệt hại rất nặng nề, làm đảo lộn thế trận chiến lược của
đế quốc Mỹ. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã
đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, rút dần
quân Mỹ về nước, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.
Với bản chất
ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ không cam tâm chịu thất bại, từ năm 1969,
chúng chuyển sang thi hành “Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”. Trong những năm 1969 - 1972, đế quốc Mỹ sử dụng tối đa về sức mạnh quân
sự, kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao hết sức xảo quyệt, hòng
cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trước tình hình đó, quân
và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân
Campuchia anh em, giành được những thắng lợi to lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đường
9 - Nam Lào, chiến dịch Đông Bắc Campuchia; đồng thời mở cuộc tiến công chiến
lược trên toàn chiến trường miền Nam bằng các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh
chủng ở Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, các chiến dịch tiến công
tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long, Trung Bộ.
Trước nguy cơ thất
bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ huy động
một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc
lần thứ hai (chiến dịch Lainơbêchcơ I) với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Với
tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí, sáng tạo, qua 7 tháng chiến đấu quyết
liệt, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 654 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 125 tàu
chiến Mỹ.
Trước những thất
bại nặng nề, đêm 18/12/1972, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở cuộc tập kích đường không
chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “Chiến dịch Lainơbêchcơ II” đánh phá miền Bắc,
tập trung ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng. Một lần nữa quân và dân miền Bắc đã anh
dũng chiến đấu, đánh bại cuộc tập kích chiến lược
của địch; bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 chiếc F-111. Bị
tổn thất lớn và không đạt mục đích, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom
miền Bắc từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại cuộc đàm phán ở Pari. Dư luận thế
giới gọi đây là trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Chiến dịch Điện Biên là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp; đồng thời là minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta. Ảnh tư liệu TTXVN.
Những thắng lợi
to lớn của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, cùng với Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên
không” đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973), rút quân về nước.Tuy nhiên, ngụy quyền Sài Gòn
ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”,
đẩy mạnh lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
Để sớm kết thúc
chiến tranh, theo đề nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, từ cuối năm
1973 đến đầu năm 1975, Bộ Chính trị đã phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn:
Quân đoàn 1 (10/1973), Quân đoàn 2 (5/1974), Quân đoàn 4 (7/1974), Quân đoàn 3
(3/1975) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn, 2/1975). Việc thành lập các quân
đoàn chủ lực đã đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong hai năm
1973 - 1974, quân và dân ta liên tiếp giành được thắng lợi quan trọng, làm cho
cục diện chiến trường tiếp tục thay đổi có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị
tháng 10/1974 và đầu năm 1975 đã chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết
tâm chiến lược giải phóng miền Nam.
Thực hiện chủ
trương của Bộ Chính trị, ngày 4/3/1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên, mở
đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Sau một số trận đánh tạo thế và
nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11/3/1975, quân ta tiến công giải phóng thị xã
Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ
Tây Nguyên.
Sau khi chiến dịch
Tây Nguyên nổ ra được một ngày, ngày 5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị -
Thiên - Huế, giải phóng tỉnh Quảng Trị, thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên. Phát
huy thắng lợi, từ ngày 26 đến ngày 29/3/1975, quân ta mở chiến dịch Đà Nẵng, giải
phóng hoàn toàn Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An. Phối hợp với lực lượng
vũ trang và nhân dân địa phương, bộ đội ta tiến công giải phóng các tỉnh Bình Định,
Phú Yên (1/4), Khánh Hòa (3/4)…
Từ những thắng lợi đó, Bộ Chính trị quyết định giải phóng Sài Gòn và
toàn miền Nam. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí
Minh”. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần
tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4, quân ta hình thành thế bao vây
Sài Gòn từ 5 hướng, do các Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân
khu 8)đảm nhiệm. 17 giờ ngày 26/4, chiến dịch bắt đầu. Sau nhiều trận chiến đấu quyết
liệt đánh chiếm vòng ngoài thắng lợi, sáng 30/4, quân ta tổng công kích vào nội
thành Sài Gòn, nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu then chốt; 10 giờ 45
phút, lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội
các chính quyền Sài Gòn, buộc tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không
điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ của Quân Giải phóng được cắm trên
nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Song song với các cuộc tiến công trên bộ giành thắng lợi, thực hiện chỉ
đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, Quân chủng Hải quân đã khẩn
trương chuẩn bị lực lượng, tranh thủ thời cơ, mưu trí, táo bạo, bất ngờ tiến
công lần lượt giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa: Song Tử Tây (14/4),
Sơn Ca (25/4), Nam Yết (27/4), Sinh Tồn (28/4), Trường Sa (29/4). Đây là thắng
lợi có ý nghĩa chiến lược, góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia ở quần đảo Trường
Sa.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn
nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân
đội ta cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân
binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết
thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thực hiện trọng vẹn di nguyện của Bác
Hồ kính yêu: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào”.
4. Quân đội nhân
dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2024)
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, các
đơn vị Quân đội đứng chân trên các vùng mới được giải phóng đã phối hợp với Ủy
ban quân quản các cấp, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng cơ sở,
xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương; tổ chức cải tạo
binh lính cảnh sát của bộ máy chính quyền cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức phản
động,… Đồng thời, các đơn vị đã tích cực tham gia lao động sản xuất, phát triển
kinh tế, tham gia xây dựng nhiều công trình trọng điểm trên mọi miền đất nước.
Sau đại thắng
mùa Xuân 1975, Quân đội ta lại phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới
Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.
Trước hành động xâm lược của quân Pôn Pốt và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt
trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực
lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã thực hiện cuộc phản công, tiến công mạnh
mẽ, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh vào ngày
7/1/1979, tiến tới giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia. Trong 10 năm (1979 -
1989), Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã phát huy tinh thần quốc tế
trong sáng, cùng quân dân Campuchia truy quét tàn quân Pôn Pốt, củng cố chính quyền
cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, hồi sinh đất nước, được Nhân dân
Campuchia trân trọng gọi Quân tình nguyện Việt Nam với tên gọi: “Đội quân nhà
Phật”.
Cũng đầu năm
1979, quân và dân ta phải chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Cuộc
chiến đấu diễn ra trong thời gian ngắn (17/2 - 6/3/1979), nhưng trên thực tế
tình hình biên giới phía Bắc căng thẳng kéo dài đến cuối những năm 80 của thế kỷ
XX. Trong cuộc chiến đấu này, quân và dân ta anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc
chủ quyền biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc.
Thắng lợi của
quân và dân ta trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến đấu bảo
vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc có ý nghĩa lịch sử rất to lớn, làm thất bại
âm mưu thâm độc của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình để phát triển
đất nước.
Trong những năm
1980 - 1986, Quân đội ta đã đẩy mạnh công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
giáo dục - đào tạo, xây dựng nền nếp chính quy; tích cực tham gia xây dựng kinh
tế, xã hội. Toàn quân đã tổ chức hàng trăm cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng
quân binh chủng quy mô lớn với nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại trên các địa
bàn chiến lược, góp phần rèn luyện, nâng cao khả năng tổ chức chỉ huy của cán bộ
và trình độ sẵn sàng chiến đấu của bộ đội.
Từ sau Đại hội
lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, Quân đội cùng toàn dân tiến hành công cuộc
đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gần 40
năm thực hiện công cuộc đổi mới, Quân đội luôn thực hiện tốt chức năng đội quân
chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, đóng góp xứng đáng
vào thành tựu chung của đất nước. Nổi bật là:
- Quân đội thường
xuyên nắm chắc và dự báo đúng tình hình, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước đề
ra đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt, thắng lợi các tình huống, không để bị động,
bất ngờ về chiến lược, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm sự ổn định chính trị, tạo môi trường thuận
lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tham mưu ban hành Nghị quyết về “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”,các chiến lược, dự án luật, đề án về quân sự,
quốc phòng. Phát huy tốt vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các ban, bộ,
ngành, địa phương trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” và khu vực phòng thủ vững chắc.
- Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo nâng
cao chất lượng huấn luyện chiến đấu với quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: “Huấn luyện
là nhiệm vụ chính trị trung tâm, thường xuyên trong thời bình”. Trên cơ sở đó,
toàn quân đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn
tập; bám sát phương châm: “Cơ bản -Thiết thực - Vững chắc”, coi trọng huấn luyện
đồng bộ và chuyên sâu, theo hướng hiện đại, nâng cao sức cơ động chiến đấu của
bộ đội, đáp ứng với các hình thái chiến tranh mới.Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo và tổ
chức thành công nhiều cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng
quy mô lớn, khẳng định sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của
Quân đội, được Đảng và Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao.
- Toàn quân thường
xuyên duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc, đánh giá, dự
báo đúng tình hình, nhất là tình hình trên không, trên biển, biên giới, nội địa,
ngoại biên, không gian mạng, kịp thời xử trí khi có tình huống, không để bị động,
bất ngờ. Chủ động, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu
tranh phòng, chống và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “bạo
loạn lật đổ”, thúc đẩy“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa Quân
đội” của các thế lực thù địch. Phối hợp với các lực lượng bảo vệ an toàn tuyệt đối
các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước.
- Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai nhiều giải pháp
thiết thực xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; xây dựng Đảng bộ Quân đội và
các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân trong sạch, vững mạnh tiêu biểu gắn với
xây dựng các cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn
diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Triển khai có hiệu quả chủ trương xây dựng Quân đội
tinh, gọn, mạnh; tổ chức thực hiện tốt công tác hậu cần, kỹ thuật và các mặt
công tác khác. Đặc biệt, công nghiệp quốc phòng được phát triển theo hướng hiện
đại, lưỡng dụng; đã nghiên cứu làm chủ công nghệ chế tạo và sản xuất được một số
vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại mang thương hiệu Việt Nam.
- Công tác hội
nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đạt nhiều kết quả nổi bật trên cả bình diện
song phương và đa phương, là trụ cột trong đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước
và Nhân dân, tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp quốc, hỗ
trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả chiến
tranh, được bạn bè quốc tế đánh giá cao, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của đất
nước và Quân đội trên trường quốc tế, thiết thực bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng
biện pháp hòa bình.
- Thực hiện chức
năng đội quân công tác, Quân đội đã có những đóng góp quan trọng trong thực hiện
công tác dân vận; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cuộc vận
động, các phong trào và nhiệm vụ chính trị của địa phương; tham gia xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, tăng cường quốc phòng, an ninh, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội; tích cực giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng
nông thôn mới, nhất là trên các địa bàn trọng điểm về quốc phòng - an ninh,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”
ngày càng vững chắc. Đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không quản ngại
gian khổ, hy sinh, xung kích trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu nạn, cứu
hộ, để bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân; nhiều cán bộ, chiến sĩ đã ngã
xuống trong thực hiện nhiệm vụ cao cả này. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội
luôn có mặt ở những nơi xung yếu, hiểm nguy để giúp đỡ Nhân dân ứng phó với thiên tai, dịch bệnh đã làm ngời sáng
thêm truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Quân đội từ Nhân dân mà ra, vì Nhân
dân mà chiến đấu, hy sinh” và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, được Đảng, Nhà
nước và Nhân dân tin tưởng, đánh giá cao.
- Thực hiện chức
năng đội quân lao động sản xuất,Quân đội đã tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước
ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế, xã hội gắn
với củng cố quốc phòng, an ninh trong giai đoạn mới; xây dựng và phát huy hiệu
quả các khu kinh tế - quốc phòng trong tham gia phát triển kinh tế, xã hội gắn
với bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược, đặc biệt khó khăn,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Các doanh nghiệp quân đội được tổ chức,
sắp xếp phù hợp với yêu cầu đổi mới qua từng thời kỳ, vừa phục vụ tốt nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng, vừa góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Các đơn vị đã tham
gia xây dựng nhiều công trình trọng điểm quốc gia, công trình hạ tầng phục vụ
dân sinh, đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc dân, bảo đảm an sinh xã hội; tham
gia thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia gắn với thực hiện
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.Toàn quân đãchú trọng tăng gia sản xuất, góp phần
cải thiện đời sống của bộ đội.
5. Truyền thống vẻ vang của Quân đội
nhân dân Việt Nam
Trải qua 80 năm
xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành,Quân đội ta đã xây đắp nên
truyền thống rất vẻ vang, được khái quát cô đọng trong lời khen ngợi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy
sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Truyền
thống đó được biểu hiện trên các nội dung sau:
Một
là, Trung thành vô hạn với
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hai
là, Quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng.
Ba
là, Gắn bó máu thịt với nhân dân, quân với dân một
ý chí.
Bốn
là, Đoàn kết nội bộ; cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu, giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng, thống nhất
ý chí và hành động.
Năm
là, Kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
Sáu
là, Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, cần, kiệm
xây dựng Quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công.
Bảy
là, Lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa,
trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan.
Tám
là, Luôn luôn nêu cao tinh thần ham học hỏi, cầu
tiến bộ, ứng xử chuẩn mực, tinh tế.
Chín là, Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí
tình.
II. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI, CỦNG CỐ QUỐC
PHÒNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Trong những năm
tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa
bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều trở ngại,
khó khăn, thách thức. Các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh quyết
liệt; tăng cường điều chỉnh chiến lược, lôi kéo, tập hợp lực lượng. Nhiều điểm
nóng, xung đột tiếp tục tồn tại, có nguy cơ lan rộng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát
triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và
thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Các thách thức an ninh phi truyền thống
ngày càng gay gắt, tác động tiêu cực đến mỗi quốc gia cũng như toàn cầu.
Trong nước, cùng với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng
tăng cao tạo ra “thế và lực mới”, đất nước ta phải đối diện với không ít khó
khăn, thách thức. Bốn nguy cơ Đảng ta xác định vẫn còn hiện hữu và tinh vi hơn,
phức tạp, khó lường hơn; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa
được đẩy lùi; sự xuống cấp của một số giá trị văn hóa và đạo đức, những mâu thuẫn,
bức xúc trong xã hội còn diễn biến
phức tạp. Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định.
Các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội với
âm mưu, thủ đoạn ngày càng công khai, trực diện và tinh vi hơn.
Tình hình đó đặt
ra những khó khăn, thách thức mới đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong những năm tới; đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng
hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội
chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội
trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và thực hiện thắng lợi mục
tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tạo tiền đề quan trọng
để đất nước bước vào “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
Phát huy những
bài học kinh nghiệm quý báu trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, trong
lịch sử xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam,chúng
ta tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân
dân và sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt sâu sắc và thực
hiện có hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân;khơi dậy
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, ý chí tự lực, tự cường, truyền thống
văn hóa tốt đẹp, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường xây
dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng
toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy
mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối
với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh
cho các đối tượng; chú trọng tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về đối
tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam, đường lối, quan điểm của Đảng, yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bồi dưỡng ý thức trách nhiệm, tinh
thần cảnh giác cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Chú trọng xây dựng
tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, nâng cao tính bền vững và khả năng
huy động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng trong các tình huống. Xây dựng khu
vực phòng thủ các cấp, phòng thủ quân khu ngày càng vững chắc, tạo thế bố trí
phòng thủ liên hoàn trên từng địa bàn và phạm vi cả nước. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội,
đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn
hóa, xã hội và đối ngoại theo đúng quan điểm
chỉ đạo: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt;
phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng
yếu, thường xuyên”.
Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm
2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu
năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại;
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Điều chỉnh tổ chức
Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, gắn với bố trí lại lực lượng và nâng cao
chất lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao trong Quân
đội. Giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang của Quân đội, phẩm chất cao đẹp
“Bộ đội Cụ Hồ” và nghệ thuật quân sự Việt Nam; thực hiện tốt chức năng “đội
quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”;sẵn sàng các
phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ứng
phó các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; nâng cao năng lực phòng, chống chiến
tranh không gian mạng, chiến tranh thông tin. Đồng thời, quan tâm, chăm lo thực
hiện tốt chính sách đối với Quân đội và chính sách hậu phương quân đội.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc
phòng theo tinh thần Kết luận số 53-KL/TW ngày 28/4/2023 của Bộ Chính trị khóa
XIII và Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW ngày 26/2/2024 của Quân ủy Trung ương về hội
nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Quán
triệt và thực hiện tốt phương châm “tích
cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, kiên định chính
sách quốc phòng “Hòa bình, Tự vệ” và “Bốn không” của Việt Nam trong quan hệ quốc
tế (không tham gia liên minh quân sự, không
liên kết với nước này để chống nước kia, không
cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại
nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc
đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Từ đó, tranh thủ tối đa sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tăng cường lòng tin chiến lược, giữ vững
môi trường hòa bình, hợp tác, cùng phát triển, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm,
từ xa”.
Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội
Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, bản
chất, truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của Quân đội và nhân dân
ta. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí tự lực, tự cường,
vượt qua mọi khó khăn, thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành mục tiêu xây dựng
Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc để xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong những năm tới theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN trong thời kỳ mới.
BAN TUYÊN GIÁO
HUYỆN ỦY